Bùa Thiên Linh Cái là loại bùa chú ác độc và nguy hiểm, tàn độc nhất trong các loại bùa chú.
“Thiên Linh Cái” thực chất là một loại bùa ngải sử dụng oán khí của những người con gái đồng trinh vẫn còn độ tuổi ngây thơ trong sáng để hô mưa gọi gió, giúp thu hút tài lộc, canh giữ của cải, thậm chí có khi hại chết cả đối thủ…Đặc biệt oán khí càng mạnh thì ma thuật càng nhiều.
Bùa Thiên Linh Cái là loại bùa chú ác độc và nguy hiểm, tàn độc nhất trong các loại bùa chú.
Vì sao lại nói như thế? Vì ngoài tác dụng của loại bùa chú gây lên cho con người thì cách luyện của nó cũng rất man rợ, ác độc và tàn nhẫn. Rất nhiều người nghe xong đã phải khiếp sợ.
Để luyện được bùa chú này thì người luyện bùa bắt buộc phải có vật chủ là những cô gái đồng trinh độ tuổi từ 13 - 15. Có rất nhiều cấp độ luyện Thiên Linh Cái, mỗi một cấp độ có một tác dụng khác nhau và mang một sức mạnh quyền năng khác nhau. Và càng lên cao thì tác dụng của nó càng lớn, quyền năng càng cao, cách luyện bùa sẽ càng man rợ và ác độc hơn.
Cách luyện bùa này có nguồn gốc lâu đời từ hồi xa xưa. Khi con người sống thành các bộ tộc rải rác quanh lưu vực sông Hoàng Hà, sông Trường Giang, sông Dương Tử… Hồi đó cách luyện bùa vẫn còn đơn sơ và ít người biết đến. Nhưng đến khi thời kỳ xã hội Phong Kiến xuất hiện, thì cách luyện bùa này bắt đầu được lan truyền và nở rộ (khoảng thế kỷ thứ III TCN), chủ yếu thuộc các tầng lớp quý tộc, địa chủ.
Thời xưa những nhà địa chủ, quý tộc vì muốn cất giữ và bảo vệ tài sản để ngăn không bị trộm cướp, làm thất thoát tài sản của mình. Nên đã cho xây những căn hầm kiên cố trong khuôn viên nhà làm nơi chôn giữ kho báu. Dù những căn hầm được xây kiên cố và bí mật nhưng để tăng thêm độ bảo mật, những địa chủ này đã mua lại những nô lệ độ tuổi từ 13-15 tuổi còn trinh tiết. Sau đó cho ăn hoa quả trong 1 tuần, rồi mặc áo bào dùng kiệu khênh đến cửa hầm. Cho ngậm sâm bịt mắt ném vào hầm hoặc chôn sống trước cửa hầm. Sau đó bịt cửa hầm lại và bắt đầu làm phép trấn yểm những linh hồn bé gái này.
Cách làm này khiến cho linh hồn của các bé gái bị mất cảm thấy oan ức và thống khổ.
Điều này sẽ hình thành lên những oán khí, bao trùm căn hầm khiến cho những ai bước vào căn hầm này đều sẽ bị hành hạ hoặc bức tử cho đến chết. Và chỉ có chủ nhân của căn hầm có mật ngữ hoặc người có bùa chú giải mới có thể bước vào. Đó là cách làm phổ biến trong xã hội địa chủ thời đó.
Mới đầu cách luyện bùa này chỉ dùng để làm thần giữ của cải và trong nhà. Nhưng sau đó bị biến tướng và phát triển theo nhiều hình thức dã man và kinh khủng để thỏa mãn “Tâm Ma” của con người.
Biết được thuật này nếu oán khí càng mạnh thì tác dụng và công dụng càng nhiều. Vì thế những người luyện bùa sẽ sử dụng nhiều cách luyện khác nhau để gia tăng sức mạnh của bùa chú. Đây cũng là điều tạo nên những cấp độ khác nhau của bùa chú.
(Hiện nay một số nơi vẫn còn tồn tại dấu tích của “Thiên Linh Cái” làm thần giữ của từ thời xưa. Do hết hiệu lực nên “Thiên Linh Cái” được giải thoát và bắt đầu quấy nhiễu đến công việc làm ăn, sinh sống của một hay nhiều gia đình trong khu vực.)
Trấn yểm long mạch của một mảnh đất. Với cách luyện bùa của cấp độ này thì có phần man rợ hơn so với cấp độ trước. Với mục đích là trấn yểm long mạch của một mảnh đất. Hay chính là trấn yểm thần linh, linh khí của một vùng. Theo dân gian kể lại thì để có thể trấn yểm được thì đòi hỏi bùa chú phải có ma thuật cực kì mạnh và người luyện bùa phải cực kì cao tay. Nếu bùa chú không mạnh thì người luyện bùa sẽ bị thần linh của vùng đất đó trỗi dậy và xử phạt. Vì cả gan dám giết thần, hoặc bị chính bùa chú quật lại. Vì thế với cấp độ này người luyện bùa phải lựa chọn vật tế và thời gian phải thật hoàn hảo. Nhằm gia tăng ma thuật của bùa ngải và kéo dài thời gian hiệu lực của nó.
Vật tế là những cô bé đồng trinh từ 13-15 tuổi. Những vật tế với cấp độ này phải là những cô bé sinh vào ngày 15 tháng 9. Và thời điểm làm bùa phải là vào lúc 09 giờ ngày 09 tháng 09 năm bất kì có số 9.
Hỏi: Vì sao phải bắt buộc là con số 9?
Đáp: Vì số 9 là con số của sự vĩnh cửu, trường tồn, trọn vẹn, thời cơ đã đến. Đây là một con số của thần quyền. Việc sử dụng những con số này sẽ làm tăng sức mạnh và hiệu lực của bùa chú.
Hỏi: Vì sao phải là những cô gái sinh vào ngày 15 tháng 9?
Đáp: Vì ngày rằm là ngày mặt trời, mặt trăng và trái đất nằm đúng trên 1 quỹ đạo. Khi đó trái đất sẽ nhận được rất nhiều sóng năng lượng rất cao - gấp 10000 lần. Vì thế những bé gái sinh vào ngày rằm thì trường sóng điện từ phát ra rất mạnh. Điều này rất tốt cho việc luyện bùa. Đặc biệt là những bé sinh vào tháng 9. Là con số biểu trưng cho sự tròn đầy, viên mãn.
Sau khi chọn được vật tế và thời gian, thầy bùa sẽ tiến hành nghi lễ bằng cách nhảy múa xung quanh vật tế. Sau đó sẽ đánh đập chửi bới, nguyền rủa, nhục mạ và thậm chí hiếp dâm… Làm sao để cho những bé gái này cảm thấy đau đớn, uất ức, thống khổ… hết sức có thể. Khi tất cả những nỗi thống khổ được dồn nén hết lên huyệt đạo ở đầu. Thì những thấy bùa sẽ chặt đầu của vật tế rồi đem chôn vào những vùng long mạch trọng điểm. Mục đích việc làm này để giết rồng, làm suy yếu đi nguồn năng lượng và chính khí của mảnh đất đó và ngăn không cho nhân tài xuất hiện. Theo một số lời đồn đoán thì đây cũng là cách mà quân Tàu đã dùng để yểm những long mạch chính của nước ta dọc theo hạ lưu sông Hồng, một số địa bàn Hà Nội và các tỉnh miền bắc nhằm ngăn không cho sản sinh ra nhân tài.
(Cũng là cách Cao Biền yểm Thần Long Đỗ tại 9 điểm huyết mạch ở núi Nùng - tức Hà Nội ngày nay. Một trong 9 điểm là đền Bạch Mã sau đó mới yểm tiếp ở sông Tô Lịch).
Với cấp độ này thì cách luyện cũng gần giống với cấp độ 2. Đó là tăng oán khí cho linh hồn bằng cách nhục mạ, hành hạ, đánh đập, hi.ếp dâm. Khi luyện bùa thì thầy bùa sẽ đóng đinh vào các huyệt đạo trên đầu nạn nhân. Tiếp theo sẽ bôi máu chó đen vào hốc mắt, hốc mũi… của vật tế sau khi ch.ặt đầu. Điều này giống như một hình thức phong ấn ngăn không cho vong linh có thể báo oán hoặc trỗi dậy.
Điều này làm cho “Thiên Linh Cái” không thể nhìn rõ mọi việc, u mê, mê muội làm mọi thứ theo cảm tính và lời của người luyện. Cách luyện này thầy bùa sẽ mang đầu lâu của các vật tế về nhà để thờ phụng. Hàng ngày thắp hương cúng bái nuôi vong linh để có thể dễ dàng sai khiến.
Tác dụng của cấp độ 3 sẽ giúp cho những người luyện bùa có khả năng thông thiên, xem bói, đoán vận hạn, thu hút tài lộc, tạo bùa yêu, điều khiển người khác và thậm chí là gi.ết người. Đây chẳng khác gì một cách nuôi âm binh. Điều này lý giải vì sao những người luyện bùa như thế này có thể biết rõ tất cả mọi sự vật sự việc từ quá khứ đến hiện tại hoặc có khi tương lai gần của người khác. Vì những tác dụng trước mắt của cách luyện bùa này mang đến mà nhiều người bất chấp luân thường đạo lý mà đi vào con đường Tà Đạo.
Kết hợp thêm những người đến xem hoặc đi theo phụng sự nhẹ dạ cả tin, không biết phân biệt đâu là “Chính” đâu là “Tà” mà lầm đường lạc lối, u mê, mù quáng tin tưởng hoàn toàn vào phép “thần thông tà đạo” của “Thầy Bùa” mà tự nguyện phụng thờ.
Với cách luyện “Thiên Linh Cái” ở cấp độ 4 thì có rất ít người biết về cách này. Vì nó vượt xa sự tưởng tượng của con người và hiện nay hầu như là không còn nữa. Cách luyện của cấp độ này thay vì dùng mỗi đầu của vật tế như cấp độ 2 thì Pháp Sư sẽ sử dụng thêm cả chân, cả tay, ruột gan, nội tạng rồi dùng những bộ phận này chôn lên những huyệt đạo của một quả núi hoặc một khu đất nào đó nhằm tạo ra những vị thần cai quản vùng đất đó. Đầu sẽ chôn trên đỉnh núi, tay chôn ở sườn núi, và chân chôn ở chân núi, thân thể chôn ở giữa núi.
Mục đích của cách làm này là để tạo nên “Thần Quyền” cai quản cả một vùng núi hoặc một khu vực nào đó nhằm bảo vệ những bí mật hoặc của cải trong khu vực đó. Thời xưa trong những lăng mộ lăng tẩm của vua chúa hoặc quý tộc thường có tục lệ phải chôn theo vàng bạc, châu báu và những đồ vật có giá trị. Để tránh việc bị mất cắp trộm mộ và kẻ địch tác động vào mộ làm ảnh hưởng xấu đến hậu thế đời sau. Nên các Pháp Sư đã sử dụng “Thiên Linh Cái” để làm thần trấn giữ Lăng Mộ.
Điều này lý giải vì sao vẫn có những vùng đất hoặc những lăng mộ con người vẫn chưa có thể tiếp cận được hoặc rất khó để vào. Hoặc có vào được thì vẫn bị dính lời nguyền làm ảnh hưởng đến bản thân và gia đình. Nhiều người tử nạn không rõ lý do khi bước vào vùng đất thiêng (người cảm thấy đuối sức, mệt mỏi, mất phương hướng, ảo giác, ốm đau, tử nạn…). Cách làm này được áp dụng ở cả những nền văn minh Lưỡng Hà, Sông Nin, Sông Hằng…
Ngoài việc sử dụng bùa chú này để bảo vệ các lăng mộ của vua chúa hoàng tộc ngày xưa thì các tướng cướp cũng thường dùng cách này để trấn giữ kho báu cướp được trên một ngọn núi hoặc trong một hang động nào đó, và cũng có người sử dụng cách này để bảo vệ những bí mật liên quan đến hậu thế đời sau.
Cũng như nhiều loại bùa ngải khác, công dụng của Thiên Linh Cái đều chỉ là những lời đồn thổi, lắm khi được phóng đại qua những câu chuyện truyền miệng trong dân gian. Cho đến giờ, khoa học vẫn chưa tìm thấy bằng chứng nào về việc linh hồn con người vẫn tồn tại sau khi đã chết, hay sự linh nghiệm của các loại bùa chú trong giai thoại dân gian.
Câu chuyện xảy ra vào những năm 2000, khi vùng sông nước Đồng Tháp xuất hiện người đàn ông tên Phạm Văn Tẩn, quê gốc An Giang (có người nói tên Tân, Tuấn), người dân khu vực thì gọi là Hai Tửng. Thuở mới đến, ông sống lênh đênh trên chiếc ghe và hành nghề bốc thuốc miễn phí. Bà con khu vực thấy thương nên cấp cho miếng đất nhỏ xây nhà. Vì có tướng mạo hiền từ, ăn nói hào sảng nên nhanh chóng chiếm được lòng tin không chỉ bà con ở đây mà còn lan rộng ra khu vực khác.
Từ khi hòa nhập với cuộc sống mới, Hai Tửng vẫn ngày đêm bốc thuốc chữa bệnh cho mọi người, nhiều người nhận xét y là một người lập dị.
Hai Tửng tự nhận, y luyện “Thiên Linh Cái” theo phương pháp lấy nhau thai của bé gái để sai khiến âm binh. Những người ác độc hơn sẽ luyện bằng thi thể của những bé gái nhỏ còn trinh. Hai Tửng từng nói với mọi người rằng y có thể “hô mưa gọi gió” và có “phép thuật siêu nhiên” và nói mình chuyên ăn chay trường, không làm chuyện thất đức và giúp đỡ mọi người.
Y bắt đầu mở rộng phương thức hành nghề. Từ bốc thuốc, khám chữa bệnh sang làm bùa ngải giúp chị em trị những ông chồng đào hoa, giúp họ quay đầu về với vợ con. Muốn đến nhà y bốc thuốc thì phải đến một mình vào ban đêm. Vì theo như y nói, vào giờ âm Thiên Linh Cái mới hiệu nghiệm, âm binh mới nghe lời sai khiến của thầy, lá bùa mới linh ứng. Khi nhắc đến tà thuật, người dân quê thường mê muội tin theo. Phần do không biết nhiều đến chuyện tâm linh, phần khác vì hoàn cảnh chồng bỏ, chồng chê nên phải tìm cách giữ cho bằng được.
Người tìm đến nhà Hai Tưng ngày một nhiều. Có những dịp, đêm đến y chạy sang nhà hàng xóm mượn một nồi to. Như lời y nói là để hầm gà, vịt, đầu heo cúng tế thánh thần. Người dân cũng không nghi ngờ nhưng cảm thấy lạ. Vì mỗi lần đi ngang nhà ông thầy bùa lại thấy lạnh sống lưng, có mùi tanh tưởi bốc lên nồng nặc.
Dần dà, câu chuyện bị đẩy lên cao khi trong vùng có vài chị em mất tích. Người ta tìm thấy 3 thi thể không đầu gần khu vực sinh sống và bắt đầu nghi ngờ Hai Tửng. Công an vào cuộc, phát hiện trong nhà y có 3 cái đầu lâu ứng với 3 thi thể không đầu đó. Sự thật vỡ ra, người dân bàng hoàng, kinh tởm. Nhớ lại những lần cho ông thầy bùa mượn nồi để hầm “đầu người” lại thấy ớn lạnh.
Hai Tưng bị tuyên án tử hình. Ngày bị xử bắn, người dân trong ngoài khu vực đổ về pháp trường đông nghẹt. Phần muốn tận mắt xem ông thầy bùa tàn độc phải trả giá, phần khác vì nghe đồn ông sẽ dùng thuật “độn thổ” để tránh cái chết. Y chết và được chôn trên mô đất nhỏ, không bia mộ, danh tính.
Nếu muốn biết rõ câu chuyện về Hai Tửng, chỉ cần tìm đến xã Tân Bình (huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp) sẽ được nghe người dân vùng này kể rõ với sự căm hận dành cho ông thầy bùa tàn ác.