Nghi Thức Tụng Kinh Rải Tâm Từ

Kinh Phật Nguyên Thủy

Nhân Duyên có bài Kinh Rải Tâm Từ, và nên Thực hành Kinh Rải Tâm từ

Kinh Rải Tâm Từ 

I. Đỉnh Lễ Tam Bảo

* Nhất tâm đỉnh lễ Đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Chính Giác, Ngài là thiên nhân từ phụ, bi trí vẹn toàn. (lạy)

* Nhất tâm lễ bái Giáo pháp do Đức Thế Tôn khéo thuyết giảng, đạo chuyển mê khai ngộ, thiết thực hiện tiền, vượt thời gian. (lạy)

* Nhất tâm kính lễ chư Thánh hiền tăng, đệ tử của Đức Thế Tôn, các ngài là bậc hoằng truyền Chính Pháp, xứng đáng cho chúng sinh lễ bái cúng dường. (lạy)

ĐỈNH LỄ TAM BẢO

(Phần nghi thức chung)


1. Thỉnh Chư Thiên

Xin thỉnh chư Thiên, /ngự trên cõi trời Dục giới cùng Sắc giới, /chư Thiên ngự trên đỉnh núi, /núi không liền, /hoặc nơi hư không, /ngự nơi cồn bãi đất liền, /hoặc các châu quận, /ngự trên cây cối rừng rậm hoặc ruộng vườn,/chư Dạ-xoa, Càn Thác Bà cùng Long vương dưới nước trên bờ, / hoặc nơi không bằng phẳng gần đây, /xin thỉnh hội họp lại đây. /Lời nào là kim ngôn cao thượng, /của Đức Thích Ca Mâu Ni, /mà chúng tôi tụng đây, /xin các bậc Hiền triết nên nghe lời ấy. Xin các ngài Đạo đức, /giờ này là giờ nên nghe Pháp bảo. (3 lần)

2. Dâng Cúng Tam Bảo

Con xin dâng các lễ vật này, /nhất là nhang đèn để cúng Phật - Pháp - Tăng tam bảo, /ngưỡng cầu cho các bậc ân nhân, /nhất là cha mẹ con và con, /đều được sự tấn hoá, /sự lợi ích, /sự bình an lâu dài.

3. Lễ Phật

Con đem hết lòng thành kính, /làm lễ đức Thế tôn đó, /Ngài là bậc A-la-hán cao thượng, /được chứng quả Chính Biến Tri, /do Ngài tự ngộ,/không thầy chỉ dạy. (3 lần)

4. Lễ Bái Phật Bảo

Đức Phật tham thiền về sổ tức quán, /ngồi trên bồ đoàn, /dưới bóng cây Bồ-đề quý báu, /và đắc thắng toàn bọn Ma vương, /mà thành bậc Chính Đẳng Chính Giác./Ngài là bậc tối thượng hơn cả chúng sinh, /con đem hết lòng thanh kính, /mà làm lễ Ngài. Chư Phật đã thành Chính Giác trong kiếp quá khứ,/chư Phật sẽ thành Chính Giác trong kiếp vị lai, /chư Phật đang thành Chính Giác trong kiếp hiện tại này, /con đem hết lòng thành kính, /mà làm lễ chư Phật trong tam thế
ấy.

5. Ân Đức Phật

Hồng danh Phật nhiệm mầu Ứng cúng/ Chính Biến Tri, Minh Hạnh đủ đầy/Ơn đức Thiện Thệ cao dày/ Bậc Thế Gian Giải chỉ bày chân tâm/ Vô Thượng Sĩ đoạn mầm ách phược/ Bậc trọn lành Điều Ngự Trượng Phu/ Trời, người quy phục Đạo sư/ Phật, Thế Tôn hiển Chân Như độ đời.

6. Quy Ngưỡng Phật

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, /chỉ có Đức Phật là quý báu, /nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, /đặng cầu sự an lạc đến cho con, /y như lời chân thật này.

7. Sám Hối Phật

Con đem hết lòng thành kính, /cúi đầu làm lễ vi trần dưới chân Đức Phật /là đấng Chí Tôn Chí Thánh. /Các tội lỗi mà con đã vô ý, /phạm đến Phật Bảo, /cúi xin Phật Bảo xá tội lỗi ấy cho con.

8. Lễ Bái Pháp Bảo

Các Pháp đúng theo đạo Bát chính, /là con đường đi của bậc Thánh nhân, /là con đường chính dẫn người hữu trí nhập Niết-bàn được. /Pháp Bảo là Pháp trừ diệt các sự lao khổ, /và các điều phiền não, /là Pháp chỉ dẫn chúng sinh, /thoát khỏi cái khổ sinh tử luân hồi, /con đem hết lòng thành kính, /mà làm lễ Pháp ấy. Các Pháp của chư Phật đã có trong kiếp quá khứ, /các Pháp của chư Phật sẽ có trong kiếp vị lai, /các Pháp của chư Phật đang giáo truyền trong kiếp hiện tại này, /con đem hết lòng thành kính, /mà làm lễ các Pháp trong tam thế ấy.

9. Ân Đức Pháp

Pháp Bất diệt Cha lành khéo dạy/ Lìa danh ngôn hý luận, nghĩ bàn/ Vượt thời gian, vượt không gian/ Thiết thực hiện tại, hoát nhiên tỏ tường./ Pháp hướng thượng, đến rồi thấy rõ/ Lìa si mê, xả bỏ vọng trần/ Trí nhân ngộ tính chân nhân/ Tự mình chứng nghiệm pháp thân diệu thường.

10. Quy Ngưỡng Pháp

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, /chỉ có Pháp Bảo là quý báu, /nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, /được cầu sự an lạc đến cho con, /y như lời chân thật này.

11. Sám Hối Pháp

Con đem hết lòng thành kính, /cúi đầu làm lễ hai hạng Pháp Bảo, /là Pháp học và Pháp hành./ Các tội lỗi mà con đã vô ý, /phạm đến Pháp Bảo, /cúi xin Pháp Bảo xá tội lỗi ấy cho con.

12. Lễ Tăng Bảo

Chư Thánh Tăng đã được trong sạch quý báu, /là bậc đáng cho người dâng lễ cúng dường, /vì lục căn của các ngài đã thanh tịnh, /lòng tham muốn đã dứt trừ, /là Tăng đã thoát ly trần tục, /con đem hết lòng thành kính, /mà làm lễ chư Thánh Tăng ấy.
Chư Tăng đã đắc đạo cùng quả trong kiếp quá khứ,/chư Tăng sẽ đắc đạo cùng quả trong kiếp vị lai, /chư Tăng đang đắc đạo cùng quả trong kiếp hiện tại này, /con đem hết lòng thành kính, /mà làm lễ chư Thánh Tăng trong tam thế ấy.

13. Ân Đức Tăng

Bậc Diệu Hạnh, Thanh văn đệ tử/ Bậc Chính Chân, Pháp lữ Tăng già/ Bậc Mô Phạm cõi sa bà/ Thân tâm trực hạnh, lìa xa luân hồi/ Thành đạo quả bốn đôi, tám chúng/ Đệ tử Phật, Ứng Cúng tôn nghiêm/ Cung nghinh, kính lễ một niềm/ Thánh đức cao cả, phúc điền dày sâu.

14. Quy Ngưỡng Tăng

Chẳng có chi đáng cho con phải nương theo, /chỉ có Đức Tăng là quý báu, /nên con phải hết lòng thành kính mà nương theo, /được cầu sự an lạc đến cho con, /y như lời chân thật này.

15. Sám Hối Tăng

Con đem hết lòng thành kính, /cúi đầu làm lễ hai bậc Tăng Bảo, /là Phàm Tăng và Thánh Tăng. /Các tội lỗi mà con đã vô ý, /phạm đến Tăng Bảo, /cúi xin Tăng Bảo xá tội ấy cho con.

16. Lễ Bái Bảo Tháp

Con xin thành kính làm lễ tất cả Bảo Tháp, /ngọc Xá-lợi, /đại thụ Bồ-đề, /và Kim thân Phật đã tạo thờ trong khắp mọi nơi.

17. Kệ Dâng Hoa

Dâng hoa cúng đến Phật-đà,
Nguyện mau giải thoát sinh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điêu tàn.
Dâng hoa cúng đến Đạt-ma,
Nguyện mau giải thoát sinh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu,
Tấm thân tứ đại khỏi sao điều tàn.
Dâng hoa cúng đến Tăng-già,
Nguyện mau giải thoát sinh già khổ đau.
Hoa tươi nhưng sẽ úa sầu,
Tấm thân tứ đạ

II. Phần Kinh Văn - Kinh Rải Tâm Từ

1. Nguyên nhân của bài kinh Tâm Từ

Một thuở nọ, Ðức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu.

Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: 

– Kính bạch chư Ðại Ðức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có được cơ hội làm phước cúng dường bốn món vật dụng, thọ trì Tam quy, ngũ giới, nghe pháp. Kính xin quý Ngài hoan hỉ nhận lời thỉnh mời của tất cả chúng con.

Chư Tỳ khưu xét thấy chỗ ở, con người, vật thực… thích hợp cho việc tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, nên nhận lời thỉnh mời của họ. Họ vô cùng hoan hỉ làm 500 cốc nhỏ, giảng đường hội họp, có đầy đủ tiện nghi đối với chư Tỳ khưu, rồi làm lễ dâng cúng đến chư Tỳ khưu Tăng.

Chư Tỳ khưu trú ngụ tại khu rừng núi, ngồi hành đạo dưới những cội cây, do oai lực giới đức trong sạch của quý Ngài, làm cho nhóm chư thiên ngự trong lâu đài của mình trên cội cây không thể ở yên ổn được, nên đành dẫn thân quyến xuống ở dưới mặt đất, bị mưa gió làm cho nhóm chư thiên này sống rất vất vả khổ cực. Nhóm chư thiên ấy biết rõ chư Tỳ khưu này sẽ ở đây suốt ba tháng mùa mưa, nên họ hội họp, bàn luận với nhau rằng: “Những vị Tỳ khưu này sẽ ở lại đây suốt ba tháng mùa mưa, chúng ta không một ai dám trở lại lâu đài của mình trên cây. Chúng ta làm cách nào để các vị ấy rời khỏi khu rừng núi này”.

Rồi họ nhất trí với nhau rằng: “Chúng ta nên hoá ra những hình ảnh đáng ghê sợ, những thứ âm thanh rùng rợn, những mùi hôi khó chịu, v.v… khiến cho các vị ấy không thể nào tiếp tục ở lại nữa”.

Thật vậy, chư Tỳ khưu đang tiến hành thiền định, tiến hành thiền tuệ, ban đêm nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm một số đông chư Tỳ khưu bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi. Do đó, nên thân hình gầy ốm, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, phát sanh bệnh hoạn, làm cho tâm không thể an trú trong đề mục thiền định.

Một hôm, chư Tỳ khưu Tăng hội họp, vị Ðại Ðức trưởng nhóm hỏi chư Tỳ khưu rằng:

– Này chư pháp đệ, trước khi vào trú ngụ trong khu rừng núi này ai cũng khoẻ mạnh, da dẻ hồng hào, gương mặt tươi sáng v.v… Nhưng bây giờ quý pháp đệ có thân hình gầy gò, khuôn mặt xanh xao, hốc hác, bệnh hoạn, v.v… quý pháp đệ trú ngụ tại khu rừng núi này có điều gì không thuận lợi có phải không?

Chư Tỳ khưu bạch rằng: 

– Kính bạch Ngài Ðại Ðức, ban đêm, chúng con nhìn thấy những hình ảnh đáng ghê sợ, nghe những thứ âm thanh rùng rợn, ngửi những mùi tanh hôi rất khó chịu, làm cho tâm của chúng con bị dao động, không ổn định, phát sanh tâm sợ hãi, nên tâm của chúng con không thể an trú trong đề mục thiền định, phát sanh tình trạng như vậy, bạch Ngài.

Ngài Ðại Ðức trưởng nhóm dạy rằng: 

– Này chư pháp đệ, như vậy, chỗ ở nơi này không thích hợp cho pháp hành thiền định, pháp hành thiền tuệ. Ðức Phật cho phép Tỳ khưu an cư nhập hạ hai kỳ: 

1- An cư nhập hạ đầu: Kể từ ngày 16 tháng 6 cho đến 15 tháng 9 (ÂL).
2- An cư nhập hạ sau: Kể từ ngày 16 tháng 7 cho đến 15 tháng 10 (ÂL).

Vậy, chúng ta còn có đủ thời gian trở về hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, xin phép Ngài an cư nhập hạ sau ở một nơi khác. Quý pháp đệ nghĩ thế nào?

Tất cả chư Tỳ khưu đều đồng tâm nhất trí nghe theo lời vị Ðại Ðức trưởng nhóm, sửa soạn lên đường trở về xứ Sāvatthi, đến hầu đảnh lễ Ðức Thế Tôn, Ngài truyền dạy rằng: 

– Này chư Tỳ khưu, Như Lai đã chế định, ban hành đến tất cả chư Tỳ khưu: “Trong mùa mưa, chư Tỳ khưu phải an cư nhập hạ suốt ba tháng tại một nơi, không được phép đi ở nơi khác, nếu không có nguyên nhân chính đáng”. Vậy, do nguyên nhân nào mà các con bỏ chỗ ở cũ.

Chư Tỳ khưu kính bạch Ðức Thế Tôn rõ những tai hoạ xảy ra do nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy, cho nên, chư Tỳ khưu không thể tiếp tục an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa. Kính xin Ðức Thế Tôn cho phép an cư nhập hạ sau tại một nơi chốn khác.

Quán xét thấy không có chỗ ở nào thuận lợi hơn nơi khu rừng núi cũ ấy, Ðức Thế Tôn khuyên dạy rằng: 

– Này chư Tỳ khưu, chỗ ở khác thuận lợi hơn không có, các con nên trở lại chỗ ở cũ; lần này, Như Lai sẽ dạy các con bài kinh Mettāsutta [5] là paritta bảo vệ cho các con được an toàn, để các con làm đề mục thiền định và làm nền tảng tiến hành thiền tuệ, thích hợp đối với các con.

Ðó là nguyên nhân mà Ðức Thế Tôn thuyết giảng bài kinh Mettāsutta: kinh Tâm Từ này.

Sau khi học tập bài kinh này xong, thực hành theo lời giáo huấn của Ðức Thế Tôn, chư Tỳ khưu cùng nhau trở lại khu rừng núi cũ. Khi ấy nhóm chư thiên trong khu rừng núi ấy cảm thấy mát mẻ, an lạc do năng lực tâm từ của chư Tỳ khưu, nên vô cùng hoan hỉ hộ độ chư Tỳ khưu sống yên ổn tiến hành thiền định với đề mục niệm rải tâm từ, chứng đắc bậc thiền sắc giới làm nền tảng, làm đối tượng để tiến hành thiền tuệ. Trong mùa an cư nhập hạ ấy, toàn thể chư Tỳ khưu đều chứng ngộ chân lý Tứ thánh đế, chứng đắc 4 Thánh Ðạo – 4 Thánh Quả và Niết Bàn, trở thành bậc Thánh A-ra-hán cao thượng; đến ngày làm lễ Pavāraṇā, tất cả chư Tỳ khưu đều làm lễ Suddhipavāraṇā: lễ thỉnh mời hoàn toàn thanh tịnh của chư bậc Thánh A-ra-hán gọi là Mahapavāraṇā: đại lễ thỉnh mời thanh tịnh.

2. Kinh Rải Tâm Từ - Kinh Văn

1. Nguyện cho tôi thoát được mọi oan trái.

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

2. Nguyện cầu cho cha mẹ, thầy tổ, bà con, bạn bè và đạo hữu

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

3. Nguyện cầu cho tất cả thiền sinh nơi đây thoát khỏi mọi oan trái,

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

4. Nguyện cầu cho tất cả chư tăng, sa di, nam và nữ cư sĩ ở nơi đây

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

5. Nguyện cầu cho tất cả thí chủ cúng dường bốn loại đồ dùng (cho chư tăng, ni)

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

6. Nguyện cầu cho tất cả chư thiên hộ trì ở tu viện này, ở chổ ở này, ở khu vực này, các chư thiên hộ trì, thoát khỏi mọi oan trái,

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

7. Nguyện cầu cho tất cả chúng sanh, các loài có hô hấp, các loài động vật, các loài sinh vật, các loài có thân và tâm, tất cả nữ giới, nam giới, bậc thánh, người phàm, chư thiên, loài người,(và) chúng sanh trong bốn cõi khổ thoát khỏi mọi oan trái,

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

Hết khổ đau,

Không bị tước đoạt hạnh phúc đã có.

Mỗi chúng sanh là chủ nhân của nghiệp do mình tạo ra.

Nơi hướng Ðông, Nơi hướng Tây,
Nơi hướng Bắc, Nơi hướng Nam, Nơi hướng Ðông Nam, Nơi hướng Tây Bắc, Nơi hướng Ðông Bắc, Nơi hướng Tây Nam, Nơi hướng dưới, Nơi hướng trên. 

thoát khỏi mọi oan trái,

Tâm không phiền não.

Thân không đau đớn.

Thân tâm được an lạc.

Giữ gìn thân tâm được an lạc.

hết khổ đau,

không bị tước đoạt hạnh phúc đã có.

Mỗi chúng sanh là chủ nhân của nghiệp do mình tạo ra.

Xa đến cõi cao nhất, 

xuống đến cõi thấp nhất, 

trong toàn thể vũ trụ, 

tất cả  chúng sanh đi trên đất,

được thoát khỏi phiền não và thù hận, 

tránh được đau đớn và hiểm nguy.

Xa đến cõi cao nhất, 

xuống đến cõi thấp nhất, 

trong toàn thể vũ trụ, 

tất cả  chúng sanh sống trong nước,

được thoát khỏi phiền não và thù hận, 

tránh được đau đớn và hiểm nguy.

Xa đến cõi cao nhất, 

xuống đến cõi thấp nhất, 

trong toàn thể vũ trụ, 

tất cả  chúng sanh ở trong không gian,

được thoát khỏi phiền não và thù hận, 

tránh được đau đớn và hiểm nguy.

8. Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường Đức Phật Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường Pháp Bảo 

9. Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường Tăng Bảo 

10. Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường cha mẹ 

11. Bằng sự thực hành đúng Chánh Pháp,
con xin cúng dường thầy tổ 

12. Với việc hành thiền này, nguyện cho tôi thoát khỏi sự khổ của già và chết

Nguyện cho những phước lành của tôi
dẫn đến sự tận diệt những lậu hoặc 

Nguyện cho giới đức (trong sạch) của tôi
sẽ là duyên lành dẫn đến Đạo và Quả

13. Chúng tôi xin hồi hướng phước báu
đến tất cả chúng sanh

14. Nguyện cầu tất cả chúng sanh được an vui

Lành thay! Lành thay! Lành thay!

III. Hồi Hướng

(Phần nghi thức chung)

1. Hồi Hướng Chư Thiên (1)

Chư Thiên ngự trên hư không
Địa cầu thượng ngự rõ thông mọi điều
Long vương thần lực có nhiều
Đồng xin hoan hỷ phúc đều chúng tôi
Hộ trì Phật giáo tăng bồi
Các bậc Thầy tổ an vui lâu dài
Quyến thuộc tránh khỏi nạn tai
Chúng sinh được hưởng phúc dài bền lâu
Chúng tôi vui thú đạo mầu
Tu hành tinh tấn ngõ hầu vô sinh.

2. Hồi Hướng Cho Người Quá Vãng

Con xin hồi hướng quả này,
Thấu đến quyến thuộc nơi đây cho tường,
Cùng là thân thích tha phương,
Hoặc đã quá vãng hoặc thường hiện nay

Chúng sinh ba giới bốn loài,
Vô tưởng hữu tưởng chẳng nài đâu đâu,
Nghe lời thành thật thỉnh cầu,
Xin mau tựu hội lĩnh thâu quả này
Bằng ai xa cách chưa hay,
Cầu xin Thiên chúng mách ngay với cùng,
Thảy đều thụ lĩnh hưởng chung,
Dứt rồi tội lỗi thoát vòng nạn tai,
Nguyện nhiều Tăng chúng đức tài,
Đạt thành Thánh quả hoằng khai đạo lành
Nguyện cho Phật Pháp thịnh hành,
Năm ngàn năm chẵn phúc lành thế gian.

3. Hoan Hỷ Phúc

Phúc căn con đã tạo thành,
Do thân, khẩu, ý tu hành gieo nên.
Đều là phúc báu vững bền,
Có thể tiếp chúng độ lên thiên đàng.
Cung trời Đao Lợi thọ nhàn,
Chúng sinh hữu tưởng nhân gian Sa-bà.
Chư Thiên, Phạm Thiên cùng là,

Bậc trời vô tưởng được mà hưởng an.
Phúc con hồi hướng dâng ban,
Chúng sinh hay biết hoàn toàn lĩnh thu.
Bằng ai chưa rõ lời cầu,
Xin cùng Thiên chúng đến hầu mách ngay.
Có người làm phúc được rày,
Lại đem hồi hướng, hiện ngay khắp cùng.
Chúng sinh hoan hỷ lĩnh chung,
Hưởng được phúc quý ung dung thanh nhàn.
Chúng sinh thế giới các hàng,
Bởi nhờ thọ thực sinh an mạng trường.
Xin thu phúc báu cúng dường,
Hoá thành thực phẩm mùi hương thoả lòng.

4. Hồi Hướng Chư Thiên (2)

Ngưỡng cầu các đấng chư Thiên
Trong vòng tịnh xá ngự yên hằng ngày
Ngự nơi đền tháp xưa nay
Những nơi biệt thất, nơi cây Bồ-đề
Chúng con xin hội họp về
Sẽ dùng pháp thí tiện bề cúng dâng

Rồi xin hộ độ chư Tăng
Cửa từ ẩn náu, phúc hằng hà sa
Tỳ-khưu chẳng luận trẻ già
Cao hạ, trung hạ, hoặc là mới tu
Thiện nam, tín nữ công phu
Đều là thí chủ, đồng phù trợ nhân
Những người trong khắp thôn lân
Kiều cư châu quận được phần an khang
Chúng sinh bốn loại thông thường
Noãn, thai, thấp, hoá khi nương pháp lành
Giải thoát Pháp Bảo nên hành
Được mà dứt khổ, truyền quanh đoạ đày
Cầu cho hưng thịnh lâu dài
Pháp thiện trí thức các ngài mở mang
Bậc tu xin được bình an
Cầu cho Tăng chúng các hàng hoà nhau
Lại thêm phẩm hạnh thanh cao
Những quả lợi ích đến mau kịp thì
Cầu xin Pháp Bảo hộ trì
Cho người tu đã quy y Phật rồi

Xin cho cả thảy chúng con
Tấn hoá trong Pháp, Phật roi giáo truyền.

5. Thỉnh Chư Thiên Hồi Quy

Mong chư thiên hoan hỷ quả phúc của chúng tôi đã tạo, /cho được thành tựu những hạnh phúc. Chúng nhân hãy bố thí, /hãy trì giới, /hãy là người vui thích tham thiền niệm Phật thường thường. /Chư thiên đã đến rồi, /xin thỉnh các ngài hồi quy. Tất cả Chính Biến Tri đều duy trì oai lực, /chư Độc Giác cũng có oai lực, /các bậc A-la-hán cũng có oai lực; /tôi xin kết hợp sự duy trì, /bằng cách phát quang hoàn
toàn các oai lực ấy

6. Nguyện Cầu

Do sự phúc báu mà chúng con đã trong sạch làm đây; xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá vãng, cầu mong cho các vị ấy hằng được sự an vui. (lạy)
Do sự phúc báu mà chúng con đã trong sạch làm đây; xin chia phúc đến thân bằng quyến thuộc còn đang hiện tiền, cầu mong cho các vị ấy hằng được sự an vui.( lạy)
Do sự phúc báu mà chúng con đã trong sạch làm đây; hãy là pháp duyên lành, để dứt khỏi những điều ô nhiễm, ngủ ngầm nơi tâm trong ngày vị lai. (lạy)

Do sự phúc báu (cúng dường) mà con đã trong sạch làm đây, hãy là pháp duyên lành để thành tựu Niết-bàn trong ngày vị lai.

7. Phổ Nguyện

Nguyện công đức đã làm
Kết duyên lành giải thoát
Ðệ tử và chúng sinh
Ðồng viên thành Chính giác.
(lạy)

Tin về Kinh Phật Nguyên Thủy

Nghi Thức Tụng Kinh Châu Báu

Kinh Phật Nguyên Thủy - 2 năm trước
Ratana Sutta (Kinh Châu Báu) ngày nay thường được tụng đọc để xua tan bệnh tật, rủi ro, và ma quỷ. ( Cũng tương tự với Kinh Phổ Môn của Phật Giáo Phát

Nghi Thức Tụng Kinh Bại Vong

Kinh Phật Nguyên Thủy - 2 năm trước
Nội dung của Kinh Bại Vong nói về việc 1 thiên nhân ( người trời) đến hỏi Đức Thế Tôn về những điều dẫn đến cửa Bại Vong, Thế Tôn nói đến 12 điều dẫn

Nghi Thức Tụng Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt

Kinh Phật Nguyên Thủy - 2 năm trước
Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt nói về việc cùng là con người với nhau nhưng lại có sự khác biệt, người giàu, người nghèo, người ít bệnh, người nhiều bệnh,

Nghi Thức Tụng Kinh Hạnh Phúc

Kinh Phật Nguyên Thủy - 2 năm trước
Kinh Hạnh Phúc hay còn gọi là Hạnh Phúc Kinh ( trích trong Tạng Kinh, Tiểu Bộ Kinh, Tập 1, Tiểu Tụng số 5). Kinh Hạnh Phúc thường dùng để Cầu an, tụng