Kinh Phổ Môn - Kinh Cầu An Tiếng Việt - Bản dịch Thầy Thích Tuệ Nhuận

Kinh Phật Thường Tụng

Thienmenh.Net gửi đến bạn đọc bản dịch Nghi Thức Trì Tụng Kinh Phổ Môn bản Tiếng Việt dịch bởi Thầy Thích Tuệ Nhuận. Nghi lễ đầy đủ

Thienmenh.Net giới thiệu với bạn đọc Nghi Thức Trì Tụng Kinh Phổ Môn bản Tiếng Việt do hòa thượng Thích Tuệ Nhuận biên dịch. Bản Hán Tạng do Pháp Sư Cưu Ma La Thập Dịch

Xem thêm: Nghi Thức Trì Tụng Kinh Phổ Môn bản Tiếng Hán

Kinh Phổ Môn Thầy Thích Tuệ Nhuận Việt DỊch

1. Đỉnh lễ tam bảo

Tất thảy cung kính

Dốc lòng kính lạy Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương ( 3 lễ)

2. Nguyện hương

Chúng con kính dâng lễ phẩm

Nguyện hương thơm bay tận mười phương

Cúi xin Phật rủ lòng thương

Chứng cho con có tâm hương cúng dàng

Hương cầu Đạo mở mang khắp cõi

Để chúng sinh được khởi Phật tâm

( 1 vái)

Cúng dàng rồi tất thảy cung kính

Dốc lòng kích lạy Phật Pháp Tăng thường ở khắp mười phương

( 1 lễ)

3. Ca Ngợi Đức Phật

Ơn Đức Phật sáng soi đuốc tuệ

Đạo cao siêu không thể nghĩ bàn

Hoa thân biến khắp không gian

Giáo lý mầu nhiệm khai quang sáng ngời

Đủ phương tiện độ đời cứu kính

Khắp loài phàm, Trời, Thánh, Quy y

Tấm lòng hỷ xả từ bi

Cứu khổ, cứu nạn thật vì chúng sinh

Tám mươi vẻ thân hình tột bậc

Đủ ba hai tướng tốt khác thường

Uy nghi cảm hóa mười phương

Khiến cho các cõi được nương tựa nhờ

Con bao kiếp mê mờ chính Pháp

Nhờ thiện duyên nay được làm người

Lại may được gặp Phật rồi

Dốc lòng kính lạy xin Ngài xét soi

Đường Thánh đạo con noi gương sáng

Lấy tâm từ xả oán trừ mê

Nguyện cho chúng sinh cùng về

Cực lạc thế giới là quê muôn đời

(Án Phạ Nhật La Vật ) ( 3 lần - 1 vái)

4. Chắp tay đỉnh lễ

  • Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô tận hư không biến pháp giới, quá, hiện, vị lai Thập phương chư Phật, Tôn pháp, Hiền Thánh Tăng thường trụ Tam bảo. ( 1 lễ)
  • Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Tôn Phật, Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát, Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát, Hộ Pháp Chư Tôn, Linh Sơn Hội Thượng Phật Bồ Tát. ( 1 lễ)
  • Chí tâm đỉnh lễ: Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi tiếp dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật. Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát, Đại Thế Chí Bồ Tát, Đại Nguyện Địa Tạng Vương Bồ Tát, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát. ( 1 lễ)

5. Sám hối

Con nay khắp vì bốn ơn ba cõi cùng chúng sanh trong pháp giới, đều nguyện dứt trừ ba chướng nên quy mạng sám hối. (1 lễ)

Đệ tử chúng đẳng chí tâm sám hối

Xưa kia con tạo bao nghiệp ác

Đều do ba độc: tham, sân, si

Từ thân, miệng, ý, phát sinh ra,

Hết thảy, con nay cầu sám hối

Bao nhiêu nghiệp chướng sâu nhường ấy

Thảy đều tiêu diệt được yên vui

Niệm niệm cùng khắp trong coi Pháp

Rộng độ chúng sinh chẳng thoái lui

(1 vái)

Sám hối phát nguyện rồi, quy mệnh lễ Quán Thế Âm Bồ Tát cùng khắp bậc Tam Bảo ( 3 lễ) 1 vái.

6. Tán Hương

( Bình tọa ngồi chắp tay tụng)

Lư hương vừa bén chiên đàn

Khắp trông cõi Pháp Đạo tràng thơm thay

Hải hội chư Phật đều hay

Theo chỗ dâng kết đài mây trong lành

Ân cần giải tỏ lòng thành

Toàn thân chư Phật hiện hành độ cho

( Nam mô Hương Vân Cái Bồ Tát Ma Ha Tát) ( 3 lần - 1 vái)

7. TỊNH PHÁP GIỚI CHÂN NGÔN

Án lam, sa ha ( 7 lần)

8. VĂN THÙ HỘ THẦN CHÂN NGÔN

Án sỉ lâm, bộ lâm ( 7 lần)

9. ĐẠI PHẬT ĐỈNH THỦ LĂNG NGHIÊM

Án a na lệ, tỳ sá đề, bệ ra bạt đà ra đà rị, bàn đà, bàn đà lễ, bạt đà ra, báng ni phấn, hổ hồng đô lư úm phấn sa bà ha. ( 3 lần)

10. ÁN THỔ ĐỊA CHÂN NGÔN

Nam mô tam mãn đá một đà nẫm án độ rô độ rô, địa vĩ tát bà ha ( 3 lần)

11. PHẢ CÚNG DÀNG CHÂN NGÔN

Án nga nga nẵng, tam bà phạ phiệt nhật la hộc ( 3 lần)

12. CHÚ ĐẠI BI

Nam mô Đại Bi Hội Thượng Phật Bồ-tát (3 lần).

Thiên thủ thiên nhãn vô ngại đại bi tâm đà la ni.Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da. Nam mô a rị đa, bà lô kiết đế, thước bát ra da, Bồ đề tát đỏa bà da, ma ha tát đỏa bà da, ma ha ca lô ni ca da. Án, tát bàn ra phạt duệ, số đát na đát tỏa.Nam mô tất kiết lật đỏa, y mông a rị da, bà lô kiết đế, thất Phật ra lăng đà bà. Nam mô na ra cẩn trì hê rị, ma ha bàn đa sa mế, tát bà a tha đậu du bằng, a thệ dựng, tát bà tát đa, na ma bà dà, ma phạt đạt đậu, đát điệt tha. Án, a bà lô hê, lô ca đế, ca ra đế, di hê rị, ma ha Bồ đề tát đỏa, tát bà tát bà, ma ra ma ra, ma hê ma hê, rị đà dựng, cu lô cu lô kiết mông, độ lô độ lô, phạt xà da đế, ma ha phạt xà da đế, đà ra đà ra, địa rị ni, thất Phật ra da, dá ra dá ra. Mạ mạ phạt ma ra, mục đế lệ, y hê di hê, thất na thất na, a ra sâm Phật ra xá lợi, phạt sa phạt sâm, Phật ra xá da, hô lô hô lô, ma ra, hô lô hô lô, hê rị, ta ra ta ra, tất rị tất rị, tô rô tô rô, Bồ đề dạ Bồ đề dạ, bồ đà dạ, bồ đà dạ, di đế rị dạ, na ra cẩn trì địa rị sắc ni na, ba dạ ma na, ta bà ha. Tất đà dạ ta bà ha. Ma ha tất đà dạ ta bà ha. Tất đà dủ nghệ thất bàn ra dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì, ta bà ha. Ma ra na ra, ta bà ha. Tất ra tăng a mục khê da, ta bà ha. Ta bà ma ha, a tất đà dạ, ta bà ha. Giả kiết ra a tất đà dạ, ta bà ha. Ba đà ma yết tất đà dạ, ta bà ha. Na ra cẩn trì bàn dà ra dạ, ta bà ha. Ma bà lợi thắng kiết ra dạ, ta bà ha. Nam mô hắc ra đát na, đa ra dạ da. Nam mô a rị da bà lô kiết đế, thước bàn ra dạ, ta bà ha. Án, tất điện đô, mạn đa ra, bạt đà dạ, ta bà ha. ( 3 lần)

13. NAM MÔ PHÁP HOA HỘI THƯỢNG CHƯ PHẨM TÔN KINH

Hơn sáu muôn lời bảy quyển vàng

Bao hàm diệu nghịa rộng mênh mang

Đề Hồ khắp chốn nhuần thơm dịu

Cam Lộ toàn thân mát nhẹ nhàng

Ngọc trắng bên răng tuôn xá lợi

Sen hồng đầu lưỡi phóng hào quang

Dù cho tạo tội hơn non núi

Diệu pháp trì chưa tới mấy hàng

( Nam mô Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ) ( 3 lần)

14. KỆ KHAI KINH

Pháp Phật cao siêu rất nhiệm mầu

Muôn đời khó gặp dễ hay đâu

Con nay nghe thấy xin vâng giữ

Chân nghĩa Như Lai nguyện hiểu sâu.

( Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ) ( 3 lần)

15. KINH DIỆU PHÁP LIÊN HOA

PHẨM "PHỔ MÔN QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT"

         Lúc bấy giờ, Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, hở áo vai hữu, chắp tay hướng về Đức Phật mà bạch rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Ngài Quán Thế Âm Bồ Tát do nhân duyên gì mà gọi tên là Quán Thế Âm?

         Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát:

         Này thiện nam tử ! Nếu có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu mọi sự khổ não, được nghe Quán Thế Âm Bồ Tát danh hiệu, rồi dốc lòng xưng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, tức thời được Ngài quán xét tiếng phát âm, người ấy đều được giải thoát.

          Nếu có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, dù vào trong lửa lớn, lửa chẳng cháy được, là do sức uy thần của Bồ Tát vậy.

          Nếu bị nước lớn cuốn trôi, xưng danh hiệu Ngài liền được chỗ cạn

          Nếu có trăm nghìn muôn ức chúng sinh vì sự tìm cầu vàng, bạc, lưu ly, xà cừ, mã não, san hô, hổ phách, trân châu các thứ báu,... Khi vào trong biển lớn, giả sử bị mây mù, gió dữ thổi, thuyền bè kia trôi dạt vào nước quỷ La Sát, trong đó nếu có nhẫn đến một người xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát thì những người ấy đều được thoát khỏi nạn quỷ La Sát, do nhân duyên đó mà gọi tên là Quán Thế Âm.

          Nếu lại có người sắp sẽ bị hại, xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì dao gậy của kẻ kia cầm, liền gãy ra từng đoạn, người ấy được giải thoát.

          Nếu trong ba nghìn đại thiên thế giới, đầy rẫy quỷ Dạ Xoa, La Sát, muốn đến hại người. Khi nghe người ấy xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì bọn quỷ dữ kia, còn chẳng dám lấy mắt ác nhìn người ấy, huống chi lại làm hại được chăng.

           Nếu lại có người hoặc có tội, hoặc vô tội mà bị gông cùm, xiềng xích trói buộc thân mình, kịp xưng danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, thì các thứ kia thảy đều đứt nát rã, liễn được giải thoát.

           Nếu trong cõi tam thiên đại thiên đầy rẫy oán tặc, có một người chủ lái buôn, cùng với các người buôn khác đem theo nhiều của báu, đi qua đường hiểm trở, trong đó có một người xướng lên rằng: " Các thiện nam tử! Đừng nên sợ hãi, các ông phải mau dốc lòng niệm danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, vị Bồ Tát ấy hay đem phép Vô Úy ban cho chúng sinh, nếu các ông niệm danh hiệu Ngài, sẽ được thoát khỏi oán tặc này." Các người lái buôn nghe rồi, đề cất tiếng niệm rằng:" Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát. Vì nhờ xưng danh hiệu Ngài nên liền được giải thoát.

          Vô Tận ý! Quán Thế Âm Bồ Tát sức uy thần mạnh lớn như thế.

          Nếu có chúng sinh nào ham lòng dâm dục, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa dục. Nếu người nhiều giận hờn thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa khỏi giận. Nếu người nhiều ngu si, thường cung kính niệm Quán Thế Âm Bồ Tát, liền được lìa ngu si.

          Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát là bậc có sức uy thần lớn như thế, Ngài lại hay làm những việc lợi ích cho nên chugns sinh thường phải một lòng nhớ niệm.

          Nếu có người phụ nữ nào, ví dù muốn cầu con trai, lễ bái cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát, liền sinh được con trai phúc đức trí tuệ, Ví dù muốn cầu con gái liền sinh được con gái có tướng đoan trang, vì trước kia đã trồng cội đức, nên mọi người đều kính mến.

          Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần như thế.

          Nếu có chúng sinh nào, cung kính lễ bái Quán Thế Âm Bồ Tát, thì phúc đức chẳng luống mất, vì thế chung sinh đều nên thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát.

          Vô Tận Ý! Nếu có người thụ trì danh tự sáu mươi hai ức hằng ha sa Bồ Tát, lại trọn đời cúng dàng các thứ ăn, uống, áo mặc, giường nằm, thuốc thang! Ý ông nghĩ thế nào? Công đức của người thiện nam tử, thiện nữ nhân ấy có nhiều chăng?

          - Vô Tận Ý Bồ Tát thưa: "Bạch Đức Thế Tôn! Rất nhiều". Đức Phật nói: "Nếu lại có người thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát, nhẫn đến một thời lễ bái cúng dàng, thì phúc đức của hai người ấy bằng nhau không khác, dù trong năm nghìn muôn ức kiếp không thể cùng tận. Vô Tận Ý! Người thụ trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ Tát được vô lượng vô biên phúc đức lợi ích thế đấy"!

          Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật rằng: "Bạch Đức Thế Tôn! Tại Sao Quán Thế Âm Bồ Tát dạo đi cõi Sa Bà này? Và tại sao Ngài vì chúng sinh nói Pháp cùng sức phương tiện việc đó thế nào?

          Đức Phật bảo Vô Tận Ý Bồ Tát!

         Này thiện nam tử! Nếu có chúng sinh ở cõi nước nào, ưng hợp thân Phật để độ được, Quán Thế Âm Bồ Tát liền hiện thân Phật vì đó mà nói Pháp,

          - Ưng hợp thân Bích Chi Phật để độ được, liền hiện thân Bích Chi Phật vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Thanh Văn để độ được, liền hiện thân Thanh Văn vì đó mà nói Pháp,

          - Ưng hợp thân Phạm Vương để độ được, liền hiện thân Phạm Vương vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Đế Thích để độ được, liền hiện thân Đế Thích vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Tự Tại Thiên để độ được, liền hiện thân Tự Tại Thiên vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Đại Tự Tại Thiên để độ được, liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Thiên Đại Tướng Quân để độ được, liền hiện thân Thiên Đại Tướng Quân vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Tỳ Sa Môn để độ được, liền hiện thân Tỳ Sa Môn vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Tiểu Vương để độ được, liền hiện thân Tiểu Vương vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Trưởng Giả để độ được, liền hiện thân Trưởng Giả vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Cư Sĩ để độ được, liền hiện thân Cư Sĩ vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Tể Quan để độ được, liền hiện thân Tể Quan vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Bà La Môn để độ được, liền hiện thân Bà La Môn vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân Tỷ Khiêu, Tỷ Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di để độ được, liền hiện thân Tỷ Khiêu, Tỷ Khiêu Ni, Ưu Bà Tắc, Ưu Bà Di vì đó mà nói Pháp

          - Ưng hợp thân phụ nữ, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn để độ được, liền hiện thân phụ nữ, Trưởng Giả, Cư Sĩ, Tể Quan, Bà La Môn vì đó mà nói Pháp.

          - Ưng hợp thân đồng nam, đồng nữ để độ được, liền hiện thân đồng nam, đồng nữ vì đó mà nói Pháp.

          - Ưng hợp thân Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, nhân và phi nhân để độ được, liền hiện ra vì đó mà nói Pháp.

          - Ưng hợp thân Chấp Kim Cương Thần để độ được, liền hiện thân Chấp Kim Cương Thần vì đó mà nói Pháp.

           Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát thành tựu công đức như thế, đã dùng các thân hình, dạo đi các cõi nước, để độ thoát chúng sinh, cho nên các ông phải một lòng cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát. 

           Vì Đại Bồ Tát Quán Thế Âm đối với chúng sinh trong khi gặp nạn nguy cấp, sợ hãi, Ngài hay ban cho phép không lo sợ, cho nên cõi Sa Bà này đều gọi Ngài là bậc " Thí Vô Úy"

          - Vô Tận Ý Bồ Tát bạch Phật:" Bạch Đức Thế Tôn! Con nay xin cúng dàng Quán Thế Âm Bồ Tát". Liền cởi chuỗi ngọc bằng các châu báu, ở nơi cổ, giá trị trăm nghìn lạng vàng, trao cho Quán Thế Âm Bồ Tát mà nói rằng:"Xin Ngài nhận chuỗi ngọc trân bảo Pháp thí này"

           Khi ấy, Quán Thế Âm Bồ Tát tạ từ không nhận. Vô Tận ý lại thưa cùng Quán Thế Âm Bồ Tát: "Xin Ngài vì thương chugns tôi mà nhận chuỗi ngọc này"

          Bấy giờ, Đức Phật bảo Quán Thế Âm Bồ Tát: "Ông nên thương Vô Tận ý Bồ Tát đây và hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Dạ Xoa, Càn Thát Bà, A Tu La, Ca Lâu La, Khẩn Na La, Ma Hầu La Già, Nhân và Phi Nhân...mà nhận chuỗi ngọc đó".

          Tức thời, Quán Thế Âm Bồ Tát vì thương hàng tứ chúng cùng Trời, Rồng, Nhân và Phi Nhân...Mà nhận lấy chuỗi ngọc, chia làm hai phần: Một Phần dân lên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, một phần dâng tháp Đức Phật Đa Bảo

          Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát có sức thần tự tại như thế, dạo đi khắp cõi Sa Bà.

          Lúc đó Ngài Vô Tận Ý Bồ Tát đọc kệ hỏi Đức Phật rằng: 

Thế-Tôn đủ tướng tốt!

Con nay lại xin hỏi

Phật tử nhân duyên gì?

Tên là Quán-Thế-Âm?

Ðấng đầy đủ tướng tốt

Kệ đáp Vô-Tận-Ý:

Ông nghe hạnh Quán-Âm

Khéo ứng các nơi chỗ

Nguyện rộng sâu như biển

Nhiều kiếp chẳng nghĩ bàn

Hầu nhiều nghìn đức Phật

Phát nguyện lớn thanh tịnh.

Ta vì ông nói qua

Nghe tên cùng thấy thân

Tâm niệm luống không qua

Hay diệt mọi nỗi khổ. O

Du ai khởi ý hại,

Xô xuống hầm lửa lớn

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Hầm lửa biến thành ao.

Hoặc trôi dạt biển lớn

Các nạn quỉ, cá, rồng

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Sóng cồn không dìm được.O

Hoặc ở đỉnh Tu di

Bị người xô rơi xuống

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Như mặt trời lơ lửng

Hoặc bị người ác đuổi

Ngã xuống núi Kim Cương

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Không mảy may xây xát

Hoặc gặp oán tặc vây

Dẫu cầm dao toan hại

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Chúng đều khởi lòng lành.

Hoặc khổ nạn vì Vua

Khi hành hình sắp chết

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Dao liền gãy từng đoạn.

Hoặc cầm tù xiềng xích

Tay chân bị gông cùm,

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Bỗng nhiên được giải thoát

Nguyền rủa và thuốc độc

Muốn làm hại thân ấy,

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Thân ấy hoàn ổn định,

Hoặc gặp bọn La Sát

Rồng độc các quỷ dữ

Do sức niệm Quán-Âm

Thời đều không dám hại

Hoặc thú dữ vây quanh

Nanh vuốt nhọn đáng sợ

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Chúng vội vàng chạy thẳng.

Rắn độc và bò cạp

Hơi độc khói lửa đốt

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Theo tiếng tự thoái, tán.

Mây, chợp giật, sấm sét

Mưa đá tuôn hạt lớn

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Liền trời quang mây tạnh.

Chúng sinh bị khốn ách

Vô lượng khổ bức thân

Quán-Âm sức trí diệu

Hay cứu đời thoát khổ

Ðầy đủ sức thần thông

Rộng tu trí phương tiện

Các cõi nước mười phương

Đều hiện thân tất cả

Mọi loài khắp đường ác

Ðịa-ngục, quỉ, súc-sanh

Khổ sinh già, bệnh chết, 

Dần dần đều dứt sạch.

Chân-quán thanh-tịnh-quán

Trí-tuệ-quán rộng lớn

Bi-quán và từ-quán,

Thường nguyện thường chiêm ngưỡng

Sáng thanh tịnh không nhơ

Tuệ nhật phá tăm tối

Hay dẹp nạn gió lửa

Soi sáng khắp thế gian.

Bi thể răn như sấm

Từ ý diệu dường mây

Mưa tuôn Pháp Cam Lộ

Diệt trừ lửa phiền não

Kiện tụng đến cửa quan

Trong quân trận sợ hãi

Nhờ sức niệm Quán-Âm

Oán thù tiêu tan hết.

Diệu-Âm, Quán-Thế-Âm

Phạm-Âm, Hải-Triều-Âm

Hơn tiếng thế gian kia,

Vì thế nên thường niệm.

Niệm niệm chớ sanh nghi

Quán Âm bậc Tịnh Thánh,

Hay làm nơi nương tựa

Cho nạn chết khổ não, 

Đủ hết thảy công đức.

Mắt Từ nhìn chúng sinh,

Phục tụ lớn như biển,

Cho nên cần đỉnh lễ.

Bấy giờ, Ngài Trì Địa Bồ Tát liền từ tòa ngồi đứng dậy, đến trước Phật bạch rằng:" Bạch Đức Thế Tôn! Nếu có chúng sinh nào nghe phẩm Quán Thế Âm Bồ Tát, đạo nghiệp tự tại, Phổ Môn thị hiện sức thần thông này thì phải biết công đức của người ấy, chẳng phải là ít".

Khi Phật nói phẩm Phổ Môn rồi, trong chugns có tám vạn bốn nghìn chúng sinh, đều phát tâm Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác.

Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm "Phổ Môn Quán Thế Âm Bồ Tát"

( 1 vái)

16. CHÂN NGÔN VIẾT:

Án đá lị, đá lị, đốt đá lị, đốt đốt đá lị, sa ha ( 3 lần)

17. LỤC TỰ ĐẠI MINH CHƠN NGÔN

Án ma ni bát minh hồng ( 21 lần)

18. TÂM KINH BÁT NHÃ BA LA MẬT ĐA

Khi Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát thực hành sâu xa Pháp Bát Nhã Ba La Mật Đa. Ngài soi thấy năm uẩn đều không, liền độ thoát hết thảy khổ ách.

Này ông Xá Lợi Tử! Sắc chẳng khác không, Không chẳng khác Sắc, sắc tức là không, không tức là sắc, thụ, tưởng, hành, thức, cũng đều như thế.

Này ông Xá Lợi Tử! Tướng không của mọi pháp không sinh, không diệt, không nhơ, không sạch, không thêm, không bớt cho nên trong chân không, không có sắc, không có thụ, tưởng, hành, thức, không có mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý: không có sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, không có nhãn giới cho đến không có ý thức giới, không có vô minh cũng không có cái hết vô minh, cho cả cái già, chết, cũng không có cái hết già, chết, không có Khổ, Tập, Diệt, Đạo không có trí tuệ cũng không có chứng đắc, vì không chỗ chứng đắc.

Bồ Tát y theo Bát Nhã Ba La Mật Đa nên tâm không ngăn ngại, vì không ngăn ngại nên không sợ hãi, xa hẳn mộng tưởng điên đảo, đạt tới cứu kính Niết Bàn. Chư Phật trong ba đời cũng y vào Bát Nhã ba La Mật Đa mà chứng được đạo Vô Thượng Chính Đẳng Chính Giác. Cho nên biết Bát Nhã Ba La Mật Đa là Đại Thần chú, là Đại Minh Chú, là Vô Thượng chú, là Vô Đẳng Đẳng chú trừ được hết thảy khổ, chân thực không hư.

Vì vậy nói ra bài chú Bát Nhã ba La Mật Đa. Liền nói bài chú rằng

" Yết đế, yết đế, ba la yết đế, ba la tăng yết đề, Bồ đề tát bà ha, ma ha Ba Nhã Ba La Mật Đa" ( 3 lần)

19. VĂN SÁM HỐI HỒI HƯỚNG TỤNG KINH

Chúng đệ tử nặng nề nghiệp chướng

Thân tâm thường vọng tưởng bời bời

Bỗng nhiên nghĩ ngợi khắp nơi

Xem văn mờ ý đầy cơi chất chồng

Nhầm chữ nghĩa trái âm trong đục

Đọc lẫn dòng lại tụng sai câu,

Lệ vào tà kiến không đâu

Hoặc khi quẫn trí ngồi lâu lơ là.

Đương tụng niệm bỏ ra đi lại

Nói chuyện riêng trễ nải linh tinh

Tâm thời chẳng để vào Kinh

Ai mà nhắc nhở lại sinh giận hờn

Nơi kính cẩn thường luôn cẩu thả

Chốn tịnh nghiêm vương cả bụi nhơ

Thân hình nghiêng ngó láo lơ

Xốc xếch áo mũ, dép dơ, vứt bừa

Kinh sách mở cấu cưa rách nát

Tụng chẳng đều ào ạt cho xong

Hương cắm siêu vẹo chất chồng

Lễ lạy đại khái cúng dâng chẳng thành

Thật hổ thẹn việc hành đáng sợ

Con cầu xin sám rửa lỗi lầm

Chư Phật Bồ Tát Thiện Thần

Từ bi thương xót phàm trần u minh

Khiến công đức tụng kinh kết quả

Được vẹn tròn hết cả ưu tư

Hồi hướng tâm nguyện e như

Hoặc khi dịch thuật dễ dư lỗi lầm

Hoặc chú giải vô tâm thiếu sót

Truyền thụ sai chẳng lọt thính âm,

Những lỗi in, cắt, viết nhầm

Lại lỗi ghi chép, ôm, cầm, đổi, thay

Dù thầy, thợ, con nay sám hối

Nhờ sức thần tội lỗi tiêu tan

Xe Pháp thường chuyển thế gian,

Hàm linh cứu vớt sinh sang Liên Trì

Nguyện công đức chuyên vì tụng niệm

Hồi hướng về chư thiên Thánh Hiền,

Già Lam, Hộ Pháp, Long Thiên

Ba cõi sông núi linh thiêng Tôn Thần

Cầu xin được phúc nhân thụ hưởng

Đạo Bồ Đề thẳng hướng không sai

Nguyện cho chúng sinh một mai

Cùng vào Bể Tính Như Lai Pháp mầu.

20. Kệ Niệm Bồ Tát Quán Âm:

Ngài Bồ Tát Quán Âm Đại Sỹ

Danh hiệu là Giáo Chủ Viên Thông

Mươi hai nguyện lớn vô cùng,

Bến mê, bể khổ mở lòng cứu nhân.

Ứng theo tiếng nhất tâm cầu khẩn

Liền hiện thân độ tận khắp nơi

Hay ban Vô Úy tức thời,

Nghìn tay, nghìn mắt đời đời độ sinh

Nam Mô Viên Thông Giáo Chủ Đại Từ Đại Bi, tầm thanh cứu khổ, cứu nạn linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần 1 vái)

Nam Mô Đại Bi Quán Thế Âm Bồ Tát ( 3 tràng( 1 vái)

Giải kết, giải kết, giải oan kết

Nghiệp chướng bao đời đều giải hết

Rửa sạch lòng trần phát tâm thành

Nay trước Phật tiền cầu giải kết,

Giải kết, giải kết, giải oan kết,

Oan trái nghiệp xưa đều giải hết,

Trăm nghìn vạn kiếp giải oan thù,

Vô lượng vô biên được giải thoát,

Giải hết oan gia diệt hết tội,

Nguyện được vãng sinh Liên trì hội,

Liên Trì Hội lớn nguyện tương phùng,

Vô lượng Bồ Đề quyết chẳng lui

Án Sỉ Lâm, Án Bộ Lâm diệt,

Kim Tra, kim tra, tăng kim tra

Ngô kim vị nhữ giải kim tra,

Chung bất dữ nhữ kết kim tra

Án cường, trung cường, cát trung cát

Ma ha hội lý hữu thù luật,

Hết thảy oan gia lìa thân mình,

Trí tuệ mênh mông lên bờ Giác

( Nam mô giải oan kết Bồ Tát Ma Ha Tát)

( 3 lần) 1 vái

21. Quỳ Gối Chắp Tay Lễ Tạ

  1. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai hiệu là Viên Thông; danh là Tự Tại, Ngài rộng lớn phát lời thệ nguyện ( 1 lễ)
  2. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai đã dốc một lòng không quản ngại, Ngài thường ở nơi biển Nam độ nguyện ( 1 lễ)
  3. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai trụ Sa Bà u minh cõi, nghe tiếng kêu cầu, ngài liền cứu khổ nguyện ( 1 lễ)
  4. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai hàng tà ma trừ yêu quái, Ngài hay diệt những nỗi nguy hiểm độ nguyện ( 1 lễ)
  5. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai cầm bình thanh tịnh cành dương liễu, tâm được Ngài rưới Cam Lộ độ nguyện ( 1 lễ)
  6. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai đại từ bi năng hỷ xả, Ngài thường thực hành sự bình đẳng độ nguyện ( 1 lễ)
  7. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai trải ngày đêm không hề tổn hại, Ngài thệ diệt hết nạn Tam Đồ nguyện. ( 1 lễ)
  8. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai hướng lên núi Nam cầu lễ bái giải thoát gông cùm xiếng xích độ nguyện ( 1 lễ)
  9. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai tạo lên thuyền Pháp bơi qua biển khổ, ngài cứu hết chúng sinh độ nguyện ( 1 lễ)
  10. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai trước có Tràng phan, sau Bảo cái, ngài tiếp dẫn sang Tây Phương độ nguyện ( 1 lễ)
  11. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai ở cảnh giới Phật Vô Lượng Thọ, ngài được Phật Di Đà thụ ký nguyện ( 1 lễ)
  12. Kính lạy Đức Quán Âm Như Lai thân đoan nghiêm, không ai sánh kịp, quyết tu vẹn tròn mười hai đại nguyện ( 1 lễ)

22. Phục Nguyện - Chắp tay đọc

Nam Mô A Di Đà Phật

          Hiện tiền đệ tử chúng con đọc tụng Đại Thừa kinh, chú cùng lễ Phật, niệm Phật nguyện đem công đức này chuyên vì hồi hướng Tây Phương trang nghiêm Tịnh Độ.

          Nguyện từ vô thủy kiếp đến nay, tất cả kẻ oán người thân, Tổ bảy đời, Tổ lâu đời, rồi đời nay hoặc nhiều đời, các vị Thầy và chư Tăng, Cha, Mẹ, rộng đến mười phương cõi Pháp hết thảy chúng sinh, các bậc thiện tri thức, kẻ ác tám nạn ba đường khổ, cho đến cỏ cây, côn trùng, loài trứng sinh, thai sinh, thấp sinh, hóa sinh, hoặc vô tình giết hay cố tình giết, tất cả vạn loại.

         Nguyện giải hết thảy mọi oan khiên, tiêu hết thảy mọi tội nghiệp, cùng chứng đạo Bồ Đề, cùng sinh về Cực Lạc. 

  1. Nam mô Sa Bà Giáo Chủ Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ( 1 lễ)
  2. Nam mô Tây Phương Cực Lạc Thế Giới Đại Từ Đại Bi Tiếp Dẫn Đạo Sư A Di Đà Phật ( 1 lễ)
  3. Nam mô Liên Trì Hải Hội, Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Thanh Tịnh Đại Hải Chúng Bồ Tát Ma Ha Tát. ( 1 lễ)

23. Tam Tự Quy Y

  1. Con quy Phật rồi, nguyện cho chúng sinh thấu hiểu đạo lớn, phát tâm vô thượng. ( 1 lễ)
  2. Con quy Pháp rồi, nguyện cho chúng sinh thông thuộc Kinh Tạng, trí tuệ như biển ( 1 lễ)
  3. Con quy Tăng rồi, nguyện cho chúng sinh hòa hợp đại chúng, hết thảy không ngại ( 1 lễ)

24. Lạy Chư Thánh Hiền

Nguyện đem công đức này,

Hồi hướng về khắp cả,

Đệ tử và chúng sinh,

Đều trọn thành Phật Đạo ( 1 lễ)

25. Văn Cầu An

Chủ sám đọc: Nam mô Quan Thế Âm Bồ Tát

Hiện tiền Đệ tử ( chúng đẳng) chí tâm khấn nguyện

Quán Âm thị hiện, thuyết pháp độ sanh

Gặp nạn xưng danh, tầm thanh cứu khổ

Bồ tát gia hộ, Đệ tử ( chúng con)

Phúng tụng Đại Thừa Pháp Bảo Tôn Kinh

Cập lễ Phật, niệm Phật. Công đức chuyên vì cầu an giải hạn cho :....

( Gia đình tín chủ, hay bệnh nhân, nạn nhân....) là............ở nhà số...........tổ......................phường...............thị................tỉnh...................nước Việt Nam hoặc đang điều trị tại...................)

Đại chúng hòa: Nguyện giải hết thảy tai ương nạn, ách, tật, chướng, nghiệp chướng, báo chướng, phiền não chướng, tận tiêu trừ, phúc thọ tăng duyên, bình yên gia cảnh, khỏe mạnh vui tưới, hết thảy mọi người, thân tâm an lạc.

Nam mô Thiên Thủ Thiên Nhãn Đại Từ Đại Bi tầm thanh cứu khổ cứu nạn linh cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần 1 vái)

( Nếu muốn Cầu Siêu, sau khi đọc xong Văn Cầu An thì đọc tiếp văn dưới đây)

Chủ sám đọc: Công đức lại vì hồi hướng ( chư hương linh ( đẳng))

Nay có gia đình tín chủ là ..............cùng hết thảy con cháu ở nhà số..........tổ.............phường.................thị..............tỉnh....................

Nguyện cầu siêu độ cho vong hồn ( bố hay mẹ...) là .......chân linh. Mệnh vong ngày .......tháng.......năm.........Phần mộ nay táng tại nghĩa trang.............và khắp nội ngoại tiên linh

Đại chúng hòa:

Nguyện chư linh đẳng oan gia khiên

Tội chướng tiêu trừ tăng trưởng phúc duyên

Bát nạn Tam Đồ mau giải thoát

Cùng sinh Tịnh Độ được an nhiên

Nam Mô sinh Tịnh Độ Bồ Tát Ma Ha Tát  ( 3 lần) 1 vái

26. TUYÊN BIỂU

Thượng lai tụng Kinh, dĩ tất kim hữu Biểu Văn hợp thành tuyên đọc,

Tuân phụng Như Lai, thần tuân phụng Thích Ca Như Lai di giáo. Đệ tử....Thần, thành hoàng, thành khủng, khể thủ, khấu thủ, đại vì chúng nhân, bách bái, trần từ tuyên bạch thướng ngôn.

27. PHỤC DĨ

Chúng sinh khổ nạn, ắt kêu cầu Bồ Tát Quán Thế Âm.

Đệ tử chí thành, xin cung kính cúng dàng Thí Vô Úy,

Hiện thân biến bá, nghe bi âm tức đến cưu mang

Diệu tướng trang nghiêm, thấy Kìm Điện đem tâm tín ngưỡng.

Quán thông tam giới, câu thệ nguyện sâu tựa bể nam

Tận độ tứ sinh, lòng bi mẫn cao tầy non Thứu

Nhờ sức Đại Hùng, Đại Lực gột rửa oan khiên

Cộng tâm Đại Trái, Đại Bi giải trừ não chướng.

Duyên nay có tại Nước Việt Nam.........Tỉnh.........Thị.............Phường, Tổ...........Số nhà.............Chúng con là............Rửa lòng thanh tịnh, phát tâm vô ngại, kính cẩn cúi đầu đỉnh lễ...........thiên, cúng dàng chư Phật, chư Đại Bồ Tát, chư Thánh Hiền chúng nhất tâm phúng tụng Kinh Diệu Pháp Liên Hoa Phẩm Phổ Môn, xướng lễ Hồng danh Quán Thế Âm Bồ Tát, cầu cho.............hết thảy mọi người thân thuộc, oán thân đều trượng uy quang, cùng hưởng chữ thân tâm an lạc.

28. NGỬA TRÔNG

Từ quan sáng láng, cứu chúng sinh thoát khỏi đường mê

Phạm tướng nguy nga, tiếp đệ tử rời nơi nhà tối

29. KÍNH DÂNG

Nam mô Đại Từ Đại Bi cứu khổ cứu nạn Linh Cảm Quán Thế Âm Bồ Tát Hồng Liên tọa hạ.

Bản Tự Thập bát long Thần Già Lam chân tể vị tiền,

30. KÍNH MONG

Mười hai nguyện vương, tầm thanh cứu khổ độ khỏi luân hồi

Ba ngàn hóa Phật, phổ phóng từ quang cứu người hạn ách.

31. ĐỘ CHO CHÚNG CON

Dù Kiếp trước trót làm việc ác, nhờ công duyên sớm được sạch làu

Đến đời này đã biết sự lành, trượng Kinh sám mau cùng hưởng thụ

Mây Đại Vân vẩy mưa Pháp thấm nhuần

Vừng nhật tuệ ánh Đạo Vàng sáng láng.

32. LẠI NGUYỆN

Bình Tịnh Thủy sái đàn tràng thanh tịnh

Tâm thiện nêu cao

Nước Dương chỉ rửa sạch chốn trần lao, lòng thành hiện tỏ.

Viên Thông Giáo Chủ, phù độ cho quốc thái dân yên

Cứu khổ Hùng Sư, linh cảm được nhân phong vật thụ

Bậc Bồ Tát Từ Bi Hỉ, Xả, độ chúng con kiến tính minh tâm

Đức Như Lai thệ nguyện hoằng thâm, dắt đệ tử mê mà biết sáng.

Cần cầu lễ bái già tỏa giải trừ

Vô Tỷ Đoan Nghiêm, quả tu thành tựu

Phẩm Phổ môn một biến chu viên

Chú Minh Tâm bảy câu thành khẩn

Giới Định Hương một triện kính dâng

Hồng danh niệm ba tràng công đức

Giải tấm lòng thành Biểu Văn đại tấu

Biểu văn tuyên tại...................

Ngày...............tháng...................năm...................

Đệ tử chúng con chí thành bái lạy kính dâng.

Thượng lai Văn Biểu tuyên đọc dĩ chu, kim đối Tam Bảo tiền, phụng bằng hỏa hóa.

Nam mô Đăng Vân Lộ Bồ Tát Ma Ha Tát ( 3 lần) 1 vái

Hóa biểu: Thượng lai văn biểu tuyên đọc dĩ chu biểu đối Tam Bảo tiền phụng bằng hỏa hóa,

Nam Mô Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát.

 

Tin về Kinh Phật Thường Tụng

10 Pháp Bất Thiện Không Nên Làm

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Không thành thật, không thẳng thắn, thiếu giới hạnh và tư cách.

6 Biểu Hiện của người tu tập đúng - Thầy Tánh Tuệ

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Biểu hiện rõ nhất của người có tu không phải là vốn kiến thức Phật Pháp tích lũy được, mà chính thái độ sống của người đó được toát ra từ ba nghiệp Th

Nghi Thức Tụng Kinh Bần Cùng Lão Nông

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Có một Ông già bần cùng mà thọ đến hai trăm tuổi, lông mày dài đẹp, hai lỗ tai rộng lớn, răng trắng và đều đặn, hai tay dài quá gối, xem qua dung mạo

Nghi Thức Tụng Kinh Nhân Quả Ba Đời

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Các vị cổ đức khuyên người học Phật, trước tiên phải duyệt các kinh nói về nhân qủa tội phước, chú trọng phần giới hạnh, cùng hiểu biết sự luân hồi tr

Hướng dẫn cách Tác Bạch và Cách Tụng các bộ Kinh dài nhiều phần

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Thông thường khi Phật Tử mới bước vào tìm hiểu về Phật Giáo Đại Thừa như việc tụng kinh, niệm Phật vẫn còn nhiều bỡ ngỡ, mong ra qua bài viết này Thie

Nghi Thức Tụng Kinh Vô Lượng Thọ

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Nghi thức Tụng Kinh Vô Lượng Thọ. Miêu tả thế giới phương Tây của Phật A Di Đà và dạy con người cách sống thanh tịnh, giữ giới luật và niệm danh hiệu

Nghi Thức Trì Tụng Kinh Tương Lai Biến Đổi, Kinh Pháp Diệt Tận

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Đức Phật Thuyết KINH PHÁP DIỆT TẬN hay còn gọi là ĐƯƠNG LAI BIẾN KINH, KINH TƯƠNG LAI BIẾN ĐỔI do Tây Tấn Trúc Pháp Hộ Hán dịch - Như Hòa dịch bản Tiế

Nghi Thức Trì Tụng Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni ( Bản Tiếng Việt)

Kinh Phật Thường Tụng - 2 năm trước
Nghi Thức Trì Tụng Kinh Trường Thọ Diệt Tội Hộ Chư Đồng Tử Đà La Ni ( Bản Tiếng Việt) sử dụng để cầu siêu thai nhi, sám hối ngũ nghịch trọng tội

4 loại nghiệp chướng của người mới phát tâm học Phật

Kinh Phật Thường Tụng - 3 năm trước
Chúng ta khi không phát tâm học Phật tu hành thì thôi, khi bắt đầu phát tâm muốn học Phật, phát tâm muốn tu hành nghiêm túc thì nghiệp chướng kéo đến

5 Công Đức của Lạy Phật mà ít người biết

Kinh Phật Thường Tụng - 3 năm trước
Nghi lễ lạy Phật, ngoài thể hiện lòng tôn kính với Đức Phật, với Tam Bảo, thì còn rất lợi lạc và phước đức to lớn ... Như trong bài kinh này Đức Phật