Năm âm lịch được tính bằng chu kỳ tròn khuyết của mặt trăng (mặt trăng còn được gọi là sao “Thái âm”).
Hiện nay, các dân tộc trên thế giới dùng rất nhiều cách tính thời gian khác nhau, nhưng chủ yếu là 3 loại: dương lịch, âm lịch và âm dương lịch. Việt Nam sử dụng loại “âm lịch” (hay còn gọi là nông lịch). Thực ra, đó chính là âm dương lịch chứ không phải hoàn toàn là âm lịch.
Năm dương lịch được tính bằng đơn vị thời gian trái đất quay một vòng quanh mặt trời.
Một vòng quay của trái đất quanh mặt trời hết 365,2422 ngày (356 ngày 5 giờ 48 phút 46 giây). Để tiện tính toán, người ta tính chẵn 365 ngày là một năm dương lịch. Do trong 365 ngày có 12 lần mặt trăng tròn khuyết nên người ta chia thành 12 tháng. Vì 365 không chia hết cho 12 nên đành phải chia thành tháng đủ (31 ngày) và tháng thiếu (30 ngày). Riêng tháng 2 cũng là tháng thiếu nhưng chỉ có 28 ngày. Như vậy cộng 12 tháng vừa đủ 365 ngày, đó là năm bình thường.
Nhưng còn dư 5 giờ 48 phút 46 giây thì tính sao đây? Trong 4 năm liền, số dư đó cộng lại suýt soát một ngày, và một ngày đó được cộng vào tháng 2 của năm thứ tư. Năm thứ tư ấy gọi là “năm nhuận”, có 366 ngày. Tháng 2 của năm nhuận có 29 ngày, ngày thứ 29 ấy gọi là “ngày nhuận”.
Một chu kì thời tiết thay đổi nóng lạnh là 364 ngày, trong khi 1 năm âm lịch chỉ có 354 - 355 ngày, mỗi năm còn dư 10 - 11 ngày, 3 năm liền dư hơn 1 tháng. Để phù hợp với chu kỳ thay đổi thời tiết nóng lạnh, người xưa đã cộng thêm 1 tháng vào năm thứ ba, năm đó sẽ có 13 tháng, tháng được cộng thêm vào gọi là “tháng nhuận”, năm đó sẽ có 384 hoặc 385 ngày.
Thời tiết thay đổi nóng lạnh là do trái đất quay nghiêng quanh mặt trời. Trái đất quay quanh mặt trời một vòng, thời tiết thay đổi nóng lạnh một lần. Một vòng quay này là cơ sở hình thành dương lịch. Bởi vậy dùng cách chia tháng nhuận để tính lịch phù hợp với chu kỳ thay đổi thời tiết, tức là kết hợp giữa âm lịch và dương lịch. Cách tính lịch như vậy không còn là âm lịch thuần túy nữa mà là kết hợp giữa lịch âm và lịch dương.
Năm âm lịch được tính bằng chu kỳ tròn khuyết của mặt trăng (mặt trăng còn được gọi là sao “Thái âm”). Người xưa phát hiện ra mặt trăng tròn khuyết rất có quy luật, bình quân mỗi lần mặt trăng tròn khuyết là 29,53 ngày. Họ đã lấy khoảng thời gian đó làm đơn vị đo thời gian và gọi là “tháng”. Tháng đủ là 30 ngày, tháng thiếu là 29 ngày.
Do trong chu kỳ từ ngày lạnh đến ngày nóng và từ ngày nóng đến ngày lạnh, mặt trăng thay đổi tròn khuyết hơn 12 lần, nên người xưa lấy 12 tháng (tháng âm lịch) thành một “năm” (năm âm lịch). Một năm đó có 354 hoặc 355 ngày. Đó là năm âm lịch thực sự. Thời cổ đại, Trung Quốc và Ai Cập là hai nước sử dụng năm âm lịch sớm nhất thế giới.
Như chúng ta đã biết, Dương lịch dựa vào chu kỳ của Mặt trời – chính là chu kỳ quỹ đạo của Trái đất quanh Mặt trời. Theo Dương lịch thì mỗi chu kỳ của Trái đất được tính là một năm. Và vì khí hậu trên Trái đất chịu hầu hết sự chi phối từ lượng ánh sáng tới từ Mặt trời nên chu kỳ này khớp với chu kỳ biến đổi tuần hoàn của thời tiết trên Trái đất.
Mặt trời vẫn mọc buổi sáng ở phía Đông, lên cao nhất vào giữa trưa và đến chiều tối thì lặn ở phía Tây nhưng đường đi mỗi ngày lại lệch đi một chút. Sự lệch đi này không phải ngẫu nhiên mà cứ khoảng 365 ngày thì đường đi của Mặt trời lại lặp lại như cũ.
Từ hơn 2.000 năm trước, các nhà thiên văn cổ ở nhiều nền văn minh lớn (Hy Lạp, Trung Quốc, Ba Tư,…) đã quan sát được sự thay đổi vị trí biểu kiến của Mặt trời trên bầu trời. Họ thấy rằng cùng một giờ trong ngày (chẳng hạn giữa trưa), nhưng mỗi ngày Mặt trời lại có một vị trí khác nhau.
Sự lệch này khiến cho cứ 4 năm thì lịch sẽ bị thiếu mất 1 ngày, tức là Mặt trời sẽ bị chậm mất 1 ngày so với lịch để trở về vị trí của nó. Để bù vào sự thiếu hụt đó, ngày nhuận ra đời.
Nhờ những quan sát chi tiết hơn, mặc dù vẫn còn sử dụng những công cụ đo thô sơ, các nhà thiên văn cổ sau đó nhận ra rằng chu kỳ để Mặt trời trở lại một vị trí nhất định không phải đúng 365 ngày mà là khoảng 365,25 ngày, tức là chênh lệch 1/4 ngày so với ước tính ban đầu.
Theo như lịch Trung Quốc hay âm lịch thì chu kỳ quay của Mặt Trăng quanh Trái Đất là khoảng 29,53 ngày nên một năm âm lịch chỉ có khoảng 354 ngày (làm tròn) vì vậy sau một vài năm âm lịch thì người ta phải bổ sung một tháng – “tháng nhuận” để đảm bảo năm âm lịch tương đối phù hợp với chu kỳ của thời tiết, là yếu tố phụ thuộc vào chu kỳ quay của Trái Đất xung quanh Mặt Trời.
Trái đất chúng ta là một hành tinh quay xung quanh hệ mặt trời. Để quay hết một vòng xung quanh mặt trời thì Trái Đất mất khoảng 365,25 ngày. Theo quy ước một năm có 365 ngày, như vậy mỗi năm sẽ thừa ra 0,25 ngày tức 6h, 4 năm sẽ dư ra một ngày hay 24h và một thế kỷ (100 năm) sẽ dư ra gần một tháng. Để tránh những sai sót này thì các nhà làm lịch đã quy ước cứ 4 năm thêm 1 ngày vào tháng 2 dương lịch. Ngày đó được gọi là ngày nhuận và những năm có ngày nhuận tháng 2 thì được gọi là năm nhuận dương lịch.
Cách tính năm nhuận âm lịch
Để tính được năm nhuận âm lịch, cách đơn giản nhất là lấy năm dương lịch tương ứng chia cho 19 và lấy số dư. Nếu số dư bằng: 0, 3, 6, 9, 11, 14, 17 thì năm âm lịch đó là năm nhuận.
Khi mới bắt đầu tạo ra lịch, người La Mã cổ đại không hề biết rằng Trái Đất quay quanh Mặt trời và đặt ra 1 năm chỉ có 304 ngày, chia làm 10 tháng. Sau này khi nhận ra lịch năm còn thiếu tận hơn 60 ngày thì họ đã thêm 2 tháng cuối năm và đặt tên là January và February, lúc này lịch đã dần chính xác với 365 ngày. Một thời gian sau, nhà bác học Sosigenes ở Ai Cập đã nghiên cứu và cho ra kết quả là một năm còn thiếu 1/4 ngày (tức khoảng 6 tiếng) nên ông đã đặt ra quy định tháng 2 có 28 ngày và cứ 4 năm sẽ có ngày 29/2.
Qua các thời kỳ phong kiến, tuy các cơ quan làm lịch được thay đổi nhiều lần, thế nhưng đều được tổ chức rất quy củ. Các cơ quan này không chỉ làm lịch mà còn có nhiệm vụ dự báo thời tiết, quan sát thiên văn rồi làm khải tấu trình lên vua.
Ngay từ thời xa xưa, Lịch đã giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong tiềm thức của người Á Đông, không chỉ ở Trung Hoa có sự kiện vua ban lịch hàng năm cho thần dân, để thần dân theo đó mà thực hiện tế lễ, nông vụ; mà ở Việt Nam, lễ ban lịch hàng năm, hay còn gọi là Ban Sóc cũng diễn ra rất long trọng.
Trong 1000 năm Bắc thuộc cho tới năm 1054, tức thời vua Lý Thái Tông, nước ta sử dụng chung lịch với lịch của Trung Hoa.
Từ năm 1407, khi bị nhà Minh đô hộ, nước ta đã chuyển sang dùng lịch cùng với nhà Minh, mãi cho đến thời vua Gia Long, năm 1812.
Kể từ sau khi vua Lý Thánh tông đã lên ngôi, nhiều tài liệu cho rằng nước ta đã bắt đầu tự soạn lịch riêng, dựa theo các phép lịch bên Trung Hoa.
Từ 1813 - 1945, khi Pháp cai trị nước ta, họ đã lập ra bảng đối chiếu lịch Dương với lịch Âm dương lấy từ Trung Quốc, trong khi nhà Nguyễn vẫn tự soạn và ban lịch riêng theo phép lịch thời Hiến (giống như nhà Thanh) ở Trung Kỳ.
Từ 1946 - 1967, Việt Nam không tự biên soạn Lịch nữa, các nhà xuất bản dịch từ lịch Trung Quốc sang.
Từ 1968 – nay, sau khi trải qua nhiều lần thay đổi múi giờ, giờ chính thức của Việt Nam được công bố tính theo múi giờ số 7, trong khi đó, Trung Quốc lại tính theo múi giờ số 8, vì thế, Việt Nam tiếp tục tự biên soạn lịch riêng cho tới nay.